Ma Văn Kháng là một trong những cựu sinh viên trong khóa học đầu tiên của khoa Ngữ văn Đại học Sư phạm Hà Nội. Trong tập kỷ yếu cũng như trên tạp chí ảnh 65 năm Sư phạm văn khoa có bài, ảnh về ông, góp phần làm nên niềm tự hào, vinh dự lớn của khoa. Về tư liệu, luận văn, luận án viết về Ma Văn Kháng có khoảng 30 bản trong 20 năm của các trường đại học, viện nghiên cứu. Không những vậy, ông còn là một người lao động nghệ thuật chân chính, thực sự, cần cù, tỉ mỉ, tinh tế, nghiêm cẩn, sáng tạo trong công việc hành nghề.
Ma Văn Kháng có một số lượng tư liệu ghi chép về vốn sống phong phú, đồ sộ trong đời sáng tác. Ông có một trí nhớ tuyệt vời, ghi vào trí não những cảm thụ, nhận thức từ thời trai trẻ. Gần như một đời, nhà văn khai thác mãi chưa vơi cạn cái kho ấn tượng, ký ức, hồi tưởng như còn tươi nguyên cỏ nội, hoa ngàn, hương rừng, gió núi ở một vùng biên ải. Khi đã bước vào tuổi xưa nay hiếm, ông vẫn hồn nhiên kể chuyện xưa như tâm hồn cô gái ở vùng cao trong Truyện của Lý. Năm 2015, vẫn chuyện thày giáo vùng cao trầm luân, Người thợ mộc và tấm ván thiên ra đời với bao kỷ niệm tươi rói.
Tuy nhiên, một người nhớ giỏi, nhớ lâu như Tô Hoài xưa kia cũng không thể tự tin hoàn toàn vào trí nhớ. Ma Văn Kháng không phải là ngoại lệ. Chỉ riêng Đồng bạc trắng hoa xòe đã là trải nghiệm sống của những tháng năm dấn thân vào cuộc đời các dân tộc, ghi chép tư liệu, khảo cứu lịch sử Lào Cai, nhất là hàng chục quyển sổ tay được cần mẫn ghi chép ròng rã trong suốt những năm tháng ấy.
Ma Văn Kháng từng kể chuyện hạ sơn về vùng xuôi với chi tiết vận chuyển thú vị. Bản thảo Vùng biên ải cùng gần một trăm cuốn sổ tay ghi chép cho các sáng tác khác (như tiểu thuyết Trăng non, Gặp gỡ ở La Pan Tẩn sau đó) cần phải được bọc gói, xếp đặt cẩn thận trong ba lô, túi xách, rương hòm, áp tải an toàn về Hà Nội.
Cũng không thể kể hết những ghi chép khi đọc sách cổ kim, đông tây, văn học, lịch sử, văn hóa, xã hội. Khi cần, người viết dẫn ra rất phù hợp, thích đáng, sát sao với văn cảnh, ý tưởng qua phê bình, tiểu luận phong phú như Sống rồi mới viết, Nhà văn, anh là ai?...
Tư liệu về Ma Văn Kháng là những bài viết nhận xét, cảm thụ, phê bình, nghiên cứu về tác phẩm, con người Ma Văn Kháng, những tập tư liệu khá đặc biệt, từ rất xa xưa, trước thời bao cấp mở cửa, được đánh số thứ tự theo mục lục. Có tập phần lớn là photo lại bài báo hoặc sách in. Ngoài ra, Đám cưới không có giấy giá thú cũng rộ lên trên tờ Giáo viên nhân dân, thu hút sự quan tâm bình luận của Xuân Cang, Nguyên Ngọc, Lê Lựu, Nguyễn Kiên, Xuân Thiều, Huy Phương, Hà Minh Đức, Phan Cự Đệ, Hữu Thỉnh, Ngô Ngọc Bội, Hoàng Minh Tường, Phạm Tiến Duật, Phạm Đình Ân...
Tập Thêm một vài tư liệu của nhà văn là tập hợp một số bài phê bình, tiểu luận trên một số báo chí, ít phần tự bạch, tự kể về quá trình hình thành những tác phẩm những năm gần đây, như Bóng đêm, Bến bờ. Ngoài ra, còn các tập hàng trăm trang in ước tính, là tư liệu trực tiếp, gián tiếp từ nhiều nguồn, các trang mạng, các blog cá nhân.
Nhà văn có thái độ làm việc khẩn trương, tốc độ ngay trong quá trình viết lách, sưu tầm, tích lũy tư liệu. Đó là thuận lợi lớn của một người viết hiện đại. Sống rồi mới viết nằm trong tập tư liệu Tiểu luận và phê bình văn học của nhà văn, do Hoàng Tuyên sưu tầm, chỉnh lý, có đến tận bài viết ghi chú rõ: “Hà Nội, 15 giờ chiều thứ bảy, 12 - 5 - 2012. Chuẩn bị đi nhận Giải thưởng Hồ Chí Minh ngày 19 - 5 - 2012 tại Nhà hát Lớn Hà Nội”. Ông đã vào các thư viện của trường đại học, thư viện Quốc gia để đọc trực tiếp, ghi chép về các luận văn, luận án. Các học viên cao học, nghiên cứu sinh đang làm việc, trao đổi, học hỏi cũng đã tặng công trình cho nhà văn, tác giả như cha đẻ tinh thần của sản phẩm nghệ thuật.
Thực ra, là nhà văn, ai cũng chú ý đến dư luận tác phẩm của mình. Tuy nhiên, với các thế hệ trước, như các nhà văn thời tiền chiến, hay trong 30 năm kháng chiến, nếu muốn cũng không có được đầy đủ các điều kiện, phương tiện như thế hệ đương đại hôm nay. Với Ma Văn Kháng, tạo dựng mảng tư liệu về sự nghiệp không chỉ là biểu hiện sự quan tâm, công phu lớn mà đó còn là một kho tư liệu quý giá về đời sống văn học của bản thân. Đây cũng là vốn sống đặc biệt từ những trang viết.
Nhà văn được ví như con ong cần mẫn hút mật cuộc đời để làm nên hoa trái tinh thần. Qua những tư liệu phong phú về đời sống, tác phẩm, nhà văn tích lũy thêm được nhiều trải nghiệm sáng tác, những bài học thấm thía về thành công hay thất bại, những thể nghiệm về lý luận, thực tiễn sáng tác. Trên hết, đó là những suy nghiệm về triết lý văn chương, về tư tưởng sáng tạo nghệ thuật. Để từ đó, họ thêm yêu quý, trân trọng, biết ơn bạn đọc qua thời gian, như người thẩm định viên sáng giá, minh triết nhất với sự nghiệp văn chương của bản thân; đó cũng là để phát huy tài năng, tăng thêm sức sống, sức viết cho ngòi bút.
Ma Văn Kháng rất tâm đắc với nhận định khá phổ biến trong giới văn chương: nguời khen ta là bạn ta, người chê ta là thày ta. Nhà văn mở lòng đón nhận tất cả bình luận để phân tích, chọn lọc, biến hóa. Đó là phương châm tâm niệm của nhà văn. Ông đã từng nghĩ viết văn là một nghề có phần mạo hiểm, là một đời dấn thân trong những thăng trầm. Mỗi tác phẩm ra đời là một thử thách, sẽ sống, chết, nổi, chìm với dư luận. Dư luận ở đây không chỉ rộng ra là cả xã hội, mà còn cả phạm vi hẹp là giới văn chương hàn lâm.
Ma Văn Kháng rất quan tâm tới những công trình tiểu luận, luận văn, luận án, ông muốn tìm ở đó những tiếng nói khách quan, khoa học, chân chính. Đó là một quan điểm đúng, không chỉ với tư cách của một người phát, thu nhận ngôn ngữ, mà còn của cả một nhà khảo cứu, một nhà khoa học tự làm giàu kiến thức về vốn sống, khoa học văn chương.
Ma Văn Kháng một đời lao động nghệ thuật miệt mài. Ông hoạt động toàn diện trên địa hạt sáng tác, phê bình tiểu luận văn chương. Tuy nhiên, theo một cái nhìn tổng thể, nhân cách lớn bao trùm được xác định là nhà văn, người lao động mẫn cán, đam mê, sống hết mình với hoạt động nhân sinh, đời sống văn chương, văn hóa. Đó cũng chính là hình ảnh rất đáng khâm phục về một nhà nhân học sống, cộng hưởng với thế giới tâm hồn con người chân chính của thời đại. Ông có quan niệm nghề văn là một nghề cần học hỏi suốt đời. Như các bậc tài danh, học tập suốt đời là hành động nghiêm túc bậc nhất của người lao động chân chính, biết sống đúng tư cách của con người. Đặc biệt, nhà văn phải là người mê mải với việc học nghề.
Là lớp đi sau, Ma Văn Kháng có cái may mắn hơn các bậc đàn anh như Nam Cao, Nguyên Hồng, Tô Hoài. Ông được đào tạo chính quy tại khoa Ngữ văn, rồi lại được bồi dưỡng một cách căn cơ, bài bản ở trường Nguyễn Du. Tất nhiên, trường đại học của cuộc đời mới chính là cái nôi sinh thành quan trọng nhất, để ông trở thành một nhà văn thực sự.
Nhiều năm làm chủ nhiệm Tạp chí Văn học nước ngoài đã giúp nhà văn có được một vốn tri thức cao hơn hẳn những người viết cùng trang lứa, thậm chí hơn cả các thế hệ đi trước. Ông đã trở thành nhà văn vào hạng thức thời nhất không những về kinh nghiệm sáng tác, mà còn cả về việc tiếp thu những lý luận sáng tác hiện đại.
Ma Văn Kháng trang bị cho mình thêm phương tiện, vũ khí chiến đấu trên trường văn, trận bút ở phạm vi toàn cầu; chủ yếu là ở thế giới phương Tây, nơi có nhiều giải Nobel về văn học. Những chuyến đi nước ngoài cũng là dịp giao lưu, học hỏi, biết mình, biết người của ông. Trong tham luận tại hội thảo văn học tại Copenhagen, Đan Mạch vào tháng 8 - 1992, bài viết với nhan đề Thuận theo người mà không bỏ mình tác giả khẳng định một phương hướng mới là mở cửa, đón nhận, giao lưu, biết mình, biết người, đó là quy luật tồn tại. Văn học Việt Nam hôm nay rõ ràng là khởi sắc, nhưng đọc các tác phẩm đó không thể không nhận ra cái hồn cốt dân tộc, cái hạt nhân bản ngã dân tộc trong sự sáng tạo, sự kích thích của ảnh hưởng từ bên ngoài. Nhà văn đam mê đọc tác phẩm văn học kinh điển của các nhà văn nước ngoài, cũng như các tác phẩm văn học cổ điển từ cổ chí kim, để tìm ra những giá trị tinh tuý, trường tồn với thời gian.
Thời trẻ, Ma Văn Kháng đã đảm nhiệm cương vị Phó Tổng biên tập báo Lào Cai, rồi làm Tổng biên tập, Phó Giám đốc Nxb Lao động (1972 - 1990). Sau đó, ông trở thành Ủy viên Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam (các khóa V, VI), rồi thành Chủ nhiệm Tạp chí Văn học nước ngoài. Hơn 30 năm làm lãnh đạo, biên tập là một quá trình rất đáng quý để rèn giũa ngòi bút. Một đời vì con chữ, dạy học, làm văn, nhưng chủ yếu là làm chữ đẹp, làm văn chương. Nhà văn là người chuyên sản xuất chữ nghĩa, nhưng lại còn kiêm cả sửa chữa, đẽo gọt, đánh bóng, tô màu từng con chữ. Nghĩa là họ còn có cả tư cách người kỹ sư, kiêm nhà mỹ nghệ chế tác con chữ.
Người viết thực sự thường phải đánh vật với con chữ, đôi lúc hình thành sản phẩm xong rồi còn phải qua chỉnh sửa nhiều. Ma Văn Kháng là một nhà văn như thế: rất cẩn trọng, chỉn chu với những gì đã viết.
Qua tâm sự, ta thấy rất rõ về sự hình thành một tác phẩm là cả một quá trình vất vả, cực nhọc vô cùng. Văn xuôi Ma Văn Kháng đã ra đời trong một cảm thức nghiêm ngặt, một quá trình đúc luyện cẩn thận, tinh vi. Hầu như tất cả các tác giả khi viết văn xuôi đều phải có bản thảo. Qua quá trình sửa chữa, phần sơ thảo này mới chuyển thành tác phẩm chính thức, rồi được công bố. Trong nhiều trường hợp, các sự chỉnh sửa còn tiếp tục sau đó qua các lần xuất bản.
Với Ma Văn Kháng, ta có thể nói quá trình cho ra đời tác phẩm là cả một kỳ công, trong đó Đồng bạc trắng hoa xòe là một tác phẩm tiêu biểu. Theo trả lời phỏng vấn, tháng 11 - 1974, nhà văn bắt đầu đặt dấu chấm cuối cùng cho tác phẩm. Đã trải qua quá trình vất vả với 4 lần sửa chữa, viết lại với gần 1.000 trang giấy viết tay, sau khi nhận được nhiều góp ý từ biên tập xuất bản. Mãi 5 năm sau, năm 1979, sách mới được in rồi ra mắt bạn đọc.
Ma Văn Kháng có thói quen là luôn sửa rất kỹ bản thảo, với mong muốn cầu toàn tối đa. Ngay cả khi gửi bản thảo đi, vẫn chưa thật yên tâm. Gần đây, vào tháng 1 - 2012, Võ sĩ lên đài do Nxb Trẻ in, phát hành là thêm một minh chứng tiêu biểu. Năm 1983, bản thảo này được gửi đến Nxb Hà Nội. Chừng 6 tháng, sách đã phát hành. Đó là một bất ngờ lớn, bởi bản thảo gửi đi thường phải chờ đợi hàng năm mới được duyệt. Tác giả từng nói trong ghi chú về Võ sĩ lên đài: “Lo vì mình vẫn giữ nền nếp là còn phải sửa chữa chán chê đã, rồi sách mới ra được, nên bản thảo đầu tiên gửi đi vẫn coi như là bản thảo chưa hoàn thiện... Mang sách về đọc lại cũng thấy tạm hài lòng. Tạm thôi. Vì thật tình còn muốn viết lại nhiều chỗ... Thế là một quá trình sửa chữa tận lực đã bắt đầu”. Bản thảo mới được Nxb Kim Đồng in lại năm 1998. Bản thảo Võ sĩ lên đài công bố đầu năm 2012, có lai lịch gần 30 năm như vậy, là sản phẩm có mức độ hoàn thiện tối đa với tài lực, ý nguyện, mong mỏi của nhà văn.
Cùng chăm lo con chữ, nhưng cách thức lao động chữ nghĩa có khác nhau. Nhà giáo dạy văn chuyển sang viết văn khá thuận lợi, bởi cùng nghề ngôn ngữ văn học. Cái khác là, khi dạy thì phải dùng nhiều loại văn khoa học, còn viết thì phải tạo ra văn mỹ thuật. Sở trường, sở đoản cũng nằm ở đó. Cảm xúc dạy văn là cảm xúc thiên về khoa học, còn viết văn chủ yếu là về cảm quan mỹ học.
Giỏi lý luận văn học thì viết tự tin, có định hướng, chọn được con đường chính xác. Tuy nhiên, cần phải xuất phát từ cảm thụ cái đẹp của cuộc sống, tâm hồn con người. Phải viết từ một sự thôi thúc mỹ cảm, viết vì một cảm hứng mãnh liệt, để trải lòng lên trang giấy. Nhiều khi phải viết từ một sự ngẫu hứng, một sự thúc đẩy vô thức như xuất thần, như thăng hoa của tâm trí. Không ai viết từ suy tư lý luận chủ nghĩa này, thuyết lý nọ. Lý luận phải thấm vào cảm xúc, để trở thành dòng văn chương.
Lao động chữ nghĩa là lao động nghệ thuật ngôn từ mang tính đặc thù, độc đáo, mang cái cực nhọc, vất vả rất đặc trưng, cũng có cái hạnh phúc thật đặc biệt. Vinh quang chỉ đạt được khi đã vượt qua bao khổ ải. Nguyên Hồng lấy được sự đồng cảm của người viết qua ý tưởng khi cho rằng mỗi con chữ phải được chắt lọc tinh vi nhất như giọt máu trong tim, tức là những gì sống nhất, thật nhất của bản thân.
Ma Văn Kháng từng nói rằng có lúc ngồi nhìn lại mình, ông phục mình quá, nửa thế kỷ mà cứ cặm cụi với con chữ. Mình tự làm khổ mình, tự giày vò mình, tự làm đau mình, tự đày mình chứ chẳng phải giời đày như người ta hay nói... Viết nhọc nhằn, cô độc thế đấy, nhưng nếu có kiếp sau, có lẽ ông vẫn chọn để trở thành một người cầm bút. Ông là một người chữ thực sự. Chữ nghĩa đã dệt nên một tấm chân dung Ma Văn Kháng, mà sau nhiều thập kỷ, người ta vẫn tìm đọc. Ông cũng nguyện cả cuộc đời mình phụng sự chữ. Nhà lao động chữ nghĩa đã trở thành nhà nghệ thuật ngôn từ.
Phong Lê thì nói đến ông trong một tác phẩm của mình: “Đặc biệt là ngôn ngữ, nếu muốn tìm đến sự phong phú của ngôn ngữ - áp cận được vào thời hiện đại, tôi nghĩ cần đọc Ma Văn Kháng, trước đó là Tô Hoài” (1). Có lẽ, đó là bình phẩm khoa học chính đáng nhất dành tặng cho Ma Văn Kháng, người một đời lao động chữ nghĩa tài năng, đặc sắc hàng đầu hiện nay.
_____________
1. Phong Lê, Người trong văn, Nxb Văn hóa Sài Gòn, TP.HCM, 2006.
Nguồn : Tạp chí VHNT số 391, tháng 1-2017
Tác giả : ĐOÀN TRỌNG HUY