1. Xây dựng hệ giá trị con người Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
Định hướng giá trị con người Việt Nam hiện nay đang có những thay đổi nhanh chóng dưới tác động của sự điều tiết vĩ mô, của kinh tế thị trường, của khoa học công nghệ và hội nhập. Để xác định định hướng giá trị về nhân cách, chuẩn mực, hệ thống chuẩn mực của con người Việt Nam, cần thiết phải nhắc lại, nhấn mạnh những tư tưởng có ý nghĩa, những chỉ dẫn quan trọng, bao gồm các chỉ dẫn trong các văn kiện của Đảng, Nhà nước và trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
Nếu như Đại hội XI xác định nhiệm vụ: “Đúc kết và xây dựng hệ giá trị chung của người Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế” thì đến Đại hội XII, Đảng ta yêu cầu: “Xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện phải trở thành một mục tiêu chiến lược phát triển. Đúc kết và xây dựng hệ giá trị văn hóa và hệ giá trị chuẩn mực con người Việt Nam thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế; tạo môi trường để phát triển về nhân cách, đạo đức, trí tuệ, năng lực sáng tạo,... khắc phục những mặt hạn chế của con người Việt Nam” (1).
Nghị quyết Đại hội XII của Đảng nhấn mạnh nhiệm vụ trọng tâm thứ sáu: “Phát huy nhân tố con người trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội; tập trung xây dựng con người về đạo đức, nhân cách, lối sống, trí tuệ và năng lực làm việc; xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh”.
Như vậy, Đảng ta đã đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện, đó là:
Đúc kết, từng bước xây dựng trong thực tế các chuẩn mực giá trị văn hóa và con người Việt Nam, tạo môi trường và điều kiện để phát triển về nhân cách, đạo đức, trí tuệ, năng lực sáng tạo, thể chất, tâm hồn, trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ công dân.
Tạo chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức, ý thức tôn trọng pháp luật; làm cho mọi người Việt Nam đều hiểu biết sâu sắc, tự hào, tôn vinh lịch sử, văn hóa dân tộc; khẳng định, tôn vinh cái đúng, cái tốt đẹp, tích cực, cao thượng; nhân rộng các giá trị cao đẹp, nhân văn.
Đấu tranh phê phán, đẩy lùi cái xấu, cái ác, thấp hèn, lạc hậu; chống các quan điểm, hành vi sai trái, tiêu cực, ảnh hưởng xấu đến xây dựng nền văn hóa, làm tha hóa con người; ngăn chặn và đẩy lùi sự xuống cấp về đạo đức xã hội, khắc phục những mặt hạn chế của con người Việt Nam.
Một nghiên cứu, điều tra xã hội học về định hướng giá trị nhân cách con người Việt Nam được thực hiện từ năm 2016, hướng đến đối tượng là các tầng lớp nhân dân của một số tỉnh, thành cả nước với mục đích là tìm hiểu ý kiến về những giá trị nhân cách của người Việt Nam hiện nay cần phát huy, rèn luyện, giáo dục. Theo số liệu thu được, 18 định hướng giá trị nhân cách được coi là rất quan trọng đối với con người Việt Nam hiện nay là: sức khỏe, yêu nước, gia đình, ham học hỏi, sống có mục đích, tôn trọng pháp luật, có ý chí vươn lên, trách nhiệm, đoàn kết, yêu con người, kiến thức, sáng tạo, coi trọng truyền thống, trung thực, tự trọng, thông minh, thực tế, cần kiệm. Thứ tự ưu tiên là khác nhau đối với các nhóm đối tượng khác nhau về tôn giáo, trình độ học vấn, lứa tuổi, giới tính, nghề nghiệp... Trong đó, 6 định hướng giá trị: sức khỏe, yêu nước, gia đình, ham học hỏi, sống có mục đích, tôn trọng pháp luật được xếp thứ tự quan trọng gần như không thay đổi theo giới tính, trình độ học vấn, tôn giáo, đảng viên hay không đảng viên... Đây cũng là 6 yếu tố giá trị cốt lõi về nhân cách con người được tìm thấy trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
Ảnh Phạm Cường
2. Giá trị nhân cách con người Việt Nam theo tư tưởng Hồ Chí Minh
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến vấn đề con người. Người thường căn dặn từng giới, từng ngành, từng nhóm xã hội, từ trẻ đến già, từ thành thị đến nông thôn, về nhân cách làm người (làm như thế nào là đúng, là tốt, làm như thế nào là chưa đúng, là cần phải sửa chữa). Người lấy hệ giá trị cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; trung với nước, hiếu với dân làm căn bản, tức là coi cái thiện, cái đức là cốt lõi, là thước đo của mọi giá trị. Cả cuộc đời của Người luôn phấn đấu tận trung cho điều đó.
Tìm hiểu 174 bài viết, bài nói chuyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh liên quan đến chủ đề giá trị nhân cách con người Việt Nam, đều thể hiện khái quát 6 giá trị cơ bản, cốt lõi là: sức khỏe, yêu nước, gia đình, ham học hỏi, sống có mục đích, tôn trọng pháp luật.
Về sức khỏe
Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm đến vấn đề sức khỏe con người. Ngay từ đầu năm 1946, Nhà nước Việt Nam mới còn hết sức non trẻ, vận mệnh dân tộc đang “ngàn cân treo sợi tóc”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Giữ gìn dân chủ, xây dựng nước nhà, gây đời sống mới, việc gì cũng cần sức khỏe mới thành công” (2). Người nói: “Mỗi một người dân yếu ớt, tức là cả nước yếu ớt, mỗi một người dân mạnh khỏe tức là cả nước mạnh khỏe”; “dân cường thì quốc thịnh” (3). Trong thời kỳ lãnh đạo dân tộc tiến hành cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: “Sức khỏe của cán bộ và nhân dân được đảm bảo thì tinh thần càng hăng hái. Tinh thần và sức khỏe đầy đủ thì kháng chiến càng gần thắng lợi, kiến quốc càng mau thành công”. Người khẳng định “luyện tập thể dục, bồi bổ sức khỏe là bổn phận của mỗi một người yêu nước” (4).
Bên cạnh đó, trong hầu hết các bài nói, bài viết khuyên thanh thiếu niên, nhi đồng, Người đều đề cập đến việc rèn luyện sức khỏe. Người luôn căn dặn phải giáo dục toàn diện đức - trí - thể - mỹ. Đặc biệt, đối với lứa tuổi trẻ em, Người đặt vấn đề sức khỏe lên cao nhất. Trong bài viết Nâng cao trách nhiệm chăm sóc, giáo dục thiếu niên, nhi đồng, viết ít lâu trước khi qua đời, Người đã nhấn mạnh: “Vì tương lai của con em ta, dân tộc ta, mọi người, mọi ngành phải có quyết tâm chăm sóc và giáo dục các cháu bé cho tốt”; “Ủy ban Thiếu niên nhi đồng, Đoàn thanh niên, ngành giáo dục và các ngành, các đoàn thể cần có kế hoạch cụ thể chăm sóc, giáo dục các cháu càng ngày càng khỏe mạnh và tiến bộ” (5). Người đã đặt nhiệm vụ chăm sóc để các cháu khỏe mạnh, lên trước nhiệm vụ giáo dục để các cháu tiến bộ.
Có thể nói, sức khỏe là định hướng giá trị đầu tiên mà Chủ tịch Hồ Chí Minh nhiều lần đã khẳng định.
Về yêu nước
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định, yêu nước là truyền thống quý báu của dân tộc ta, của nhân dân ta, mà nhiệm vụ chúng ta phải giữ gìn và phát triển. Người căn dặn tất cả cán bộ, chiến sĩ, đảng viên, nhân dân, mọi tầng lớp, mọi giới đều phải yêu nước. Từ dạy trẻ thơ, Người cũng yêu cầu phải yêu tổ quốc (6). Đối với kiều bào ta ở nước ngoài, Người cũng khẳng định, hễ cứ là người Việt Nam là “một lòng yêu nước” (7).
Trong Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng (2-1951), Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta” và “bổn phận của chúng ta là làm cho tinh thần yêu nước của tất cả mọi người đều được thực hành...” (8).
Người khẳng định: “Loài người không gì quý bằng tổ quốc” (9).
Có thể nói, theo tư tưởng Hồ Chí Minh, trong số định hướng giá trị nhân cách quan trọng nhất của con người Việt Nam hiện nay, không thể thiếu yêu nước.
Về gia đình
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Hạt nhân của xã hội là gia đình. Dân tộc có những gia đình vẻ vang thì nhất định tự do, độc lập” (10). Từ mỗi gia đình Việt Nam, những chuẩn mực giá trị tốt đẹp như lòng yêu nước, yêu quê hương, yêu thương đùm bọc lẫn nhau, thủy chung, hiếu nghĩa, hiếu học, cần cù sáng tạo trong lao động, bất khuất, kiên cường vượt qua mọi khó khăn, thử thách… được hình thành, phát triển, giữ gìn, vun đắp, phát huy.
Trong việc giáo dục thanh thiếu niên, nhi đồng, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn nhắc tới tầm quan trọng của gia đình: “Sự giáo dục từ gia đình đến cả xã hội, sẽ làm cho nhi đồng thấm nhuần. Nó hun đúc cho nhi đồng tinh thần nồng nàn yêu tổ quốc, yêu lao động, yêu học hỏi...” (11).
Người đã đích thân chỉ đạo xây dựng Hiến pháp và ngay sau đó là Luật Hôn nhân và gia đình, là nền tảng căn bản, định hướng giá trị gia đình trong nhận thức của mỗi con người Việt Nam.
Về ham học hỏi
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: dân tộc Việt Nam là một dân tộc hiếu học. Tinh thần hiếu học (ham học hỏi và hiểu biết) thể hiện xuyên suốt trong lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước. Trong bài Nói chuyện với nam nữ thanh niên học sinh các trường trung học Nguyễn Trãi, Chu Văn An và Trưng Vương, Người dặn dò: “Nhiệm vụ chính của thanh niên học sinh là học. Phải học để yêu Tổ quốc, yêu nhân dân, yêu lao động, yêu khoa học, yêu đạo đức. Yêu đạo đức: chúng ta phải thực hiện đức tính trong sạch, chất phác, hăng hái, cần kiệm...” (12).
Đặc biệt, trong rất nhiều bài nói, bài viết về thanh thiếu niên, nhi đồng, Người đều dặn dò phải ham học hỏi: thanh niên thì “phải có lòng ham tiến bộ, ham học hỏi, học luôn, học mãi. Học văn hóa, học chính trị, học nghề nghiệp” (13).
Trong 5 điều Bác Hồ dạy thiếu niên, nhi đồng, điều thứ 2 quan trọng là “học tập tốt, lao động tốt”. Đối với cán bộ, đảng viên, Người yêu cầu: “Cán bộ phải chịu khó học” (14).
Người kêu gọi: “Mọi người Việt Nam... phải có kiến thức để có thể tham gia công cuộc xây dựng nước nhà” (15).
Có thể thấy, định hướng giá trị nhân cách ham học hỏi cũng chiếm vị trí rất quan trọng trong tư tưởng Hồ Chí Minh về con người, về cán bộ, về giáo dục thanh thiếu niên, nhi đồng, giáo dục thế hệ cách mạng cho đời sau.
Về sống có mục đích
Mục đích sống, lý tưởng sống là một trong những chủ đề mà Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu đối với mỗi người, nhất là giới trẻ. Ngay sau khi đất nước độc lập, trong ngày khai giảng đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Người đã căn dặn các em học sinh: “Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các cháu” (16). Bằng cách đó, Người hướng dẫn các em sống phải có mục đích và mục đích ấy phải là cống hiến, xây dựng, phát triển đất nước.
Hướng dẫn thanh niên, trong Bài nói tại Lễ kỷ niệm lần thứ 35 ngày thành lập Đoàn Thanh niên Lao động Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu: “Nâng cao chí khí anh hùng cách mạng; nắm vững khoa học kỹ thuật; ra sức học tập và sáng tạo; thực hiện cần cù và tiết kiệm; đoàn kết chặt chẽ, thương yêu giúp đỡ lẫn nhau để cùng tiến bộ không ngừng” (17). Người rất quan tâm đến giáo dục mục đích sống, giáo dục bồi dưỡng lý tưởng cách mạng cho tuổi trẻ: “Chúng ta không một phút nào được quên lý tưởng cao cả của mình là suốt đời phấn đấu cho tổ quốc ta được hoàn toàn độc lập, chủ nghĩa xã hội hoàn toàn thắng lợi trên đất nước ta”. Người cho rằng: Mục tiêu lý tưởng phấn đấu của thanh niên là học tập... “Học để phụng sự tổ quốc, phụng sự nhân dân, học để làm cho dân giàu, nước mạnh”. Đó chính là định hướng giá trị nhân cách sống có mục đích mà Hồ Chí Minh đã để lại cho chúng ta như một di sản quý báu về nhân cách làm người.
Về tôn trọng pháp luật
Tinh thần thượng tôn pháp luật của Bác chính là tinh thần tuyệt đối tôn trọng pháp luật, đảm bảo pháp luật được thực thi một cách nghiêm minh. Tinh thần đó được thể hiện một cách toàn diện ở hai khía cạnh: một là, Người đã chú trọng xây dựng nền pháp chế của nước nhà; hai là, Người đã thực thi nghiêm chỉnh pháp luật trong mọi hành động và cư xử của mình.
Hồ Chí Minh cho rằng: Luật pháp dựa vào đạo đức, mặt khác luật pháp bảo vệ đạo đức. Nhân dân ta hiện nay có tự do, tự do trong kỷ luật. Mỗi người có tự do của mình, nhưng phải tôn trọng tự do của người khác. Người nào sử dụng quyền tự do của mình quá mức mà phạm đến tự do của người khác là phạm pháp. Không thể có tự do cho bọn Việt gian, bọn phản động, bọn phá hoại tự do của nhân dân... Chúng ta cũng thấy luật pháp của ta hiện nay chưa đầy đủ. Chính các chú (những cán bộ ngành tư pháp) có trách nhiệm phải góp phần làm cho luật pháp của ta tốt hơn, càng ngày càng phong phú hơn. Phải cố gắng làm cho luật pháp dân chủ ngày càng nhiều hơn, tốt hơn.
Người khẳng định: Nghĩ cho cùng, vấn đề tư pháp, cũng như mọi vấn đề khác, trong lúc này, là vấn đề ở đời và làm người (18).
3. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng hệ giá trị con người Việt Nam trong tình hình hiện nay
Trước hết, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục về các định hướng giá trị nhân cách con người Việt Nam, trong đó, tập trung vào 6 yếu tố giá trị cốt lõi được thể hiện đậm nét trong tư tưởng Hồ Chí Minh, bao gồm vấn đề sức khỏe, gìn giữ, phát huy truyền thống yêu nước, phát huy giá trị yêu nước trong mỗi người dân; quan tâm đúng mức tới vai trò của gia đình đối với mỗi cá nhân và toàn xã hội, đặc biệt quan tâm vấn đề giáo dục gia đình; đổi mới toàn diện giáo dục, xây dựng một xã hội học tập, học tập suốt đời; giáo dục mục đích sống là yêu cầu vô cùng cần thiết đối với việc xây dựng những giá trị nhân cách con người Việt Nam; xây dựng nhà nước pháp quyền, giáo dục luật pháp, ý thức tôn trọng luật pháp là một trong những trọng tâm cần đề ra của công tác tư tưởng trong tình hình hiện nay.
Hai là, xây dựng nhân cách con người và phát triển nguồn nhân lực một cách tối ưu, đổi mới hơn nữa quan điểm nhìn nhận, sử dụng con người và nguồn nhân lực con người. Muốn vậy, cần phải nhấn mạnh con người và nguồn nhân lực là nội lực quan trọng nhất và là điều kiện quyết định xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, coi trọng cả tài lẫn đức, lấy đức làm gốc. Lấy phát triển con người bền vững làm trung tâm của mọi chiến lược phát triển. Coi trọng vai trò mỗi con người cá nhân, tạo điều kiện cho mọi người phát huy năng lực làm chủ quá trình lao động của mình. Tăng cường đầu tư vào vốn con người vừa là điều kiện quyết định phát triển đất nước, vừa là con đường dân chủ hóa xã hội và thực hiện công bằng xã hội, đoàn kết dân tộc. Lấy lợi ích của người lao động trên cơ sở hiệu quả lao động làm nguyên tắc cơ bản quản lý xã hội, đề cao tính tích cực xã hội của người lao động, bảo đảm lợi ích xã hội. Bảo đảm hài hòa lợi ích vật chất và nhu cầu tinh thần của cá nhân và cộng đồng. Bảo đảm môi trường dân chủ thuận lợi cho lao động giao lưu đồng thuận, tạo cơ hội thăng tiến cho tất cả mọi người. Có chính sách giải phóng và phát huy mọi tiềm năng của người lao động.
Ba là, sớm có chiến lược xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân, thiện, mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học. Văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc tổ quốc, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Bốn là, việc xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện phải trở thành một mục tiêu của chiến lược phát triển. Đúc kết và xây dựng hệ giá trị văn hóa và hệ giá trị chuẩn mực của con người Việt Nam thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế; tạo môi trường và điều kiện để phát triển về nhân cách, đạo đức, trí tuệ, năng lực sáng tạo, thể chất, tâm hồn, trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ công dân, ý thức tuân thủ pháp luật. Tạo chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức, ý thức tôn trọng pháp luật, mọi người Việt Nam đều hiểu biết sâu sắc, tự hào, tôn vinh lịch sử, văn hóa dân tộc. Khẳng định, tôn vinh cái đúng, cái tốt đẹp, tích cực, cao thượng; nhân rộng các giá trị cao đẹp, nhân văn. Đấu tranh phê phán, đẩy lùi cái xấu, cái ác, thấp hèn, lạc hậu; chống các quan điểm, hành vi sai trái, tiêu cực, ảnh hưởng xấu đến việc xây dựng nền văn hóa, làm tha hóa con người. Có giải pháp ngăn chặn và đẩy lùi sự xuống cấp về đạo đức xã hội, khắc phục những mặt hạn chế của con người Việt Nam.
Năm là, cần xây dựng và chính thức công bố Hệ giá trị Việt Nam làm cơ sở đạo đức để xây dựng con người và phát triển nguồn nhân lực. Văn hóa chính trị bao gồm cả năng lực điều hành sự vận động hệ giá trị của dân tộc - quốc gia, cộng đồng, đơn vị tổ chức. Nhiều nước có hệ giá trị của nước mình, có nước gọi là chuẩn mực đạo đức, cụ thể hóa quy luật giá trị vào đời sống tinh thần nước mình. Đưa ra hệ giá trị bao gồm: thang giá trị; thước đo giá trị để tuyển chọn, đề bạt, trả lương...; định hướng giá trị để giáo dục, tự giáo dục, xây dựng môi trường xã hội lành mạnh, nhằm giúp mọi người nhận ra chân giá trị của mình, người khác, cộng đồng và làm việc phù hợp với năng lực, sở thích, tạo ra giá trị cho mình, gia đình, cộng đồng
_______________
1. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2016, tr.126-127.
2, 3, 4, 15, 16. Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.241, 241, 40, 35.
5, 17, 18. Hồ Chí Minh, sđd, tập 15, tr.578-579, 76-79.
6, 7, 11. Hồ Chí Minh, sđd, tập10, tr.337, 77, 337.
8. Hồ Chí Minh, sđd, tập 7, tr.38.
9, 10, 12. Hồ Chí Minh, sđd, tập 9, tr.487, 487, 178-179.
13. Hồ Chí Minh, sđd, tập 5, tr.464.
14. Hồ Chí Minh, sđd, tập 6, tr.16.
Tác giả: Bùi Thục Anh
Nguồn : Tạp chí VHNT số 411, tháng 9 - 2018